Chôn trong mây trời
von Maik Cây
Khi bà tôi chết, tôi nghĩ, thế là hỏng rồi, chắc tôi không thể nào sống quá được mười năm nữa. Tôi không mường tượng ra cách nào để tiếp tục tồn tại trong thế giới tàn bạo và ngu ngốc này mà không có sự che chở của Trần Bích Băng, bà tôi. Tôi không định kể rằng bà tôi là một biển cả từ bi hay một ngọn núi thâm trầm hay một thánh nữ lân mẫn gì. Bà chỉ là một bà già 94 tuổi 5 tháng vào thời điểm bà qua đời, rất điên khùng, hút thuốc lá điện tử, thích mặc áo nhung giữa mùa hè và mắc bệnh ghét người kinh niên.
Nói thế nào để nói về bà? Tôi không biết phải mô tả ra sao về Trần Bích Băng. Bà là một văn sĩ già nổi tiếng, khó tính nhưng hào sảng, kênh kiệu nhưng cũng rất mực thân tình, đường phố nhưng “noble et classique”[1] (như cách bà hay nhạo mình). Bà là người đã ban cho tôi cái gene sầu muộn, cáu kỉnh tưởng như đầy chất thơ nhưng vô cùng tai quái – chỉ là tôi không chọn văn chương như bà mà chọn nhiếp ảnh. Tôi tin là bà cũng ban cho tôi cái gene đồng tính nữ, dù bà có lấy chồng và yêu chồng – nhưng đó là một câu chuyện khác. Cũng như tôi, thời trẻ, bà từng đụng chạm với điện ảnh, rồi nhận ra mình chỉ nên chiếm lấy vị trí của một khán giả chiêm bái điện ảnh thay vì cưỡi lên nó, nên bèn từ bỏ nó không chút nhân nhượng. Bà là một người hiển lộ tình yêu và dấn thân vào tình yêu sâu sắc, điều mà tôi chẳng may không thể chia sẻ. Bà nói nhiếp ảnh của tôi quá lạnh lùng và thiếu vắng sự riêng tư, còn tôi phê phán bà vì thứ văn chương sầu bi mà bà khai xướng (“Đức Mẹ sầu bi mới” – như người ta gọi bà), và độ nhiễu loạn, phi lý, thiếu trật tự của nó.
Có lẽ tôi sẽ cố kể vài điều về Trần Bích Băng để bạn có thể hiểu bà rõ hơn. Biết đâu đấy, ai đó, đâu đó, ở một thời không nào đó trong những mảnh rạn thời không, sẽ nhận ra họ là môn đồ hay kẻ thù của bà.
Trần Bích Băng luôn nói với tôi rằng trạng thái tỉnh thức của con người là một trạng thái tuyệt đối cô đơn, vì vậy, chúng ta làm mọi thứ để u mê đi và bớt cô đơn hơn. Sự mẫn tiệp hay trí huệ của một con người, với bà, là những giả thần tượng lạnh lùng. Nhưng cuộc đời bà cho thấy bà luôn chọn cô đơn như một định mệnh không cần chối cãi. Bà ấp iu sự trống trải con người trong không gian căn hộ thừa mứa đồ đạc của mình. Bệnh ghét người của bà chiếm trọn con người bà, như một căn bệnh vô phương cứu chữa. Nó trải ra trên làn da bà, nhuốm đẫm ánh mắt bà, và nếu ai đó bắt tay bà, họ thường ngầm nhận ra đó là một cái hất tay đuổi họ ra xa.
Khi tôi dọn về ở với bà tầm sáu năm trước, tôi đã từng dẫn bạn gái về nhà để giới thiệu với bà. Nàng hiền lành, trong trẻo, và được hầu như tất cả mọi người thương quý. Cũng như bà chưa bao giờ hỏi tôi về việc vì sao sinh ra là một đứa con gái mà tôi lại cắt tóc gần trọc và mặc quần áo đàn ông, Trần Bích Băng không quan tâm đến việc tôi có bạn gái, cong hay thẳng, đen hay trắng, trái hay phải, nhưng bà có ối thứ để bình phẩm về bất kỳ cô ả nào tôi dẫn về nhà (những lời không nhẹ nhàng gì, tôi phải thú thật vậy). Sau cuộc gặp với cô bạn gái nọ, bà chỉ nói rất khẽ khàng khi chúng tôi cùng nhau dọn dẹp bàn trà bánh đã bày ra để tiếp vị khách này (nay đã là bạn gái cũ của tôi): “Cái cô này thoang thoảng mùi hôi nách đấy nhỉ.” Phải, và đó là bà nội tôi, với miệng lưỡi như dao cứa của bà.
Tôi rất sửng sốt vì nhận xét này của bà, thậm chí có phần cảm giác bị xúc phạm – hiển nhiên, bởi tôi không nghĩ là bạn gái tôi hôi nách hay hôi bất kỳ cái gì cả. Mũi tôi đâu có điếc đến vậy? Nhưng bà thì luôn nhìn ra được một cái gì đó quái gở, thiếu hay ho ở người khác và cười thầm một mình về chuyện đó. Bà là một bà già tai quái, nếu phải thực lòng nhận xét. Nhưng tôi sẽ không phủ nhận sự tinh tế của bà. Hai năm sau cuộc gặp gỡ định mệnh ấy, tôi chia tay bạn gái, và quả tình, ở giai đoạn cuối trước khi chúng tôi hai người đôi ngả, tôi đã vài lần thoáng ngửi thấy một thứ mùi nồng gắt từa tựa mùi hôi nách quanh người cô. Ấy vậy mà, như một vở hài kịch đen, tôi từng gọi nàng là “bông huệ trắng của tôi” trong một email ướt rượt tôi gửi cho nàng.
Đời tôi đã có đôi lần được nếm trải hạnh phúc khi tôi sống trong căn hộ của Trần Bích Băng – cái căn hộ rộng rãi, kỳ dị, bốc lên vẻ nghệ sĩ kiêu căng đôi khi hơi lợm giọng nhưng ngập tràn khói mù yêu đương ấy.
Vùng Alpes-de-Haute-Provence, nước Pháp – khung cảnh là một cánh đồng tulip mênh mông trải ra dưới nền trời xanh biếc đến khó tin của miền quê Đông Nam. Đó là một bức tranh Trần Bích Băng treo trong phòng khách của mình. Một bức tranh rất lạc quẻ, theo thiển ý của tôi, vì căn phòng, và nói chung là cả căn hộ, được bà trang hoàng với độ tinh tế và gout thẩm mỹ đến nhức mũi, còn bức tranh lại quá sến súa. Có vẻ một ai đó đã tặng cho bà thứ vưu vật tầm thường này, một người bà từng yêu quý sâu sắc, nhưng bà không bao giờ kể cho tôi nghe. Đó là thứ tôi thường ngồi hàng giờ hút cần sa và ngắm nghía. Cái bức tranh khổ nhỏ đó, với vẻ tự tin như một cô ả tỉnh lẻ ghé chân nơi điền dã (gợi nhớ L’Arlésienne/ Cô nàng tỉnh Arles – truyện ngắn ưa thích của bà do Alphonse Daudet sáng tác), làm tôi thấy căn hộ của bà có một vẻ ngọt ngào dễ chịu. Nằm giữa những bức tranh sưu tầm khá tăm tối, đáng sợ (rất có giá trị, nhưng không bao giờ rao bán) của Bích Băng và cả một số tranh bà vẽ hơi vụng về, khó hiểu, bức tranh cánh đồng tulip luôn gây ra một cảm hứng hân hoan cho những ai ghé thăm căn hộ. Nó như một dải bờ biển óng vàng (thật điên rồ khi so sánh một cánh đồng tulip với một bờ biển, nhưng quả nó là như vậy) trên lãnh thổ của một quốc gia phương Bắc lạnh lẽo. Nó làm cho khán giả của Bích Băng, khi đứng trong cái phòng khách mà vốn là một khán phòng trá hình dành riêng cho bà, cảm thấy bớt sợ bà – trong tư cách một thể chế văn chương – diễn ngôn, và có thể thu hết can đảm để mon men đến bên bà.
Giống như một thứ nước hoa quá gắt gỏng (mùi bà thường dùng là Cocaïne của Franck Boclet, một mùi vô cùng dễ chịu và êm ái, phần nào làm mềm mại đi phong cách lên gân lên cốt của bà), những phẩm chất tài hoa nơi bà làm người ta đôi khi thấy nhột, thậm chí ghét bà. Nhưng họ bị bà thu hút quá mạnh, nên ngay lập tức quay đầu để lại lạc vào cơn mê của Medusa trần thế này. Ngược lại với cách người đời tha thiết với mình, bà thực hành triệt để lời Lão Tử như ngài đã nói trong cuốn sách ấu thơ ưa thích của bà – Đạo Đức Kinh: “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.[2]” Bà coi phần lớn nhân loại là những bãi phế tích nguyên tử hổ lốn, hỗn độn – có thể thú vị và hấp dẫn cho nghiệp sáng tác của bà, nhưng vô dụng trong mọi thực hành đời sống và vô nghĩa trong hải trình qua bể thời gian đằng đẵng của đời sống.
Một điều rất random/ ngẫu nhiên về bà ư ? Câu chửi ưa thích của bà khi cực kỳ khó chịu với một người, dù là đàn ông hay đàn bà hay không đàn ông cũng không đàn bà: “Con phò.” Điều đó nói lên cái gì về Trần Bích Băng ? Tự nhận mình là một phe-mi-nít[3] cấp tiến, là một người ủng hộ hợp pháp hóa lao động tình dục và tạo điều kiện tiếp cận y tế, giáo dục cho người lao động tình dục, bà giải thích rằng con phò ở đây không phải là “con phò”, mà là một con phò. Lời giải thích này thường làm tôi bật ra một cơn tiền đình khẩn cấp. Dù vậy, không ai có thể nói dối mình rằng họ không vui thú tột độ khi nghe bà chửi lẩm bẩm sau lưng một ai đó hay hét vào mặt một ai đó với vẻ khinh miệt lũ chó rơm rác rưởi bằng hai chữ “con phò” kỳ diệu này. Đôi khi bà sẽ chửi một cách khá thích thú với những người bà yêu ghét lẫn lộn. Bà nói: “Ái chà, con phò này.” và cuốn môi lên cười. Bà nói: “Con Phò của Chúa.” và làm thứ dấu thánh báng bổ trước ngực. Bà nói: “Và một con phò đã ra đời.”, rồi áp tay lên lồng ngực thở dài ra vẻ thương cảm giả tạo hết sức hài hước. Bà nói: “Hãy để con phò này được khai sáng.” và lia hai ngón tay ngang trước mặt như thể một vị thánh ngang ngược trong những tranh thánh Trung cổ. Và, tôi nhớ như in, tại một trong những buổi tiệc cuối năm hay giáng sinh hết sức ầm ĩ, chảnh chọe mà bà vẫn thường tổ chức cho bạn hữu, bà tôi, trong bộ đầm nhung đen nghiêm cẩn, gương mặt trang điểm cẩn thận, chuỗi vòng ngọc trai trắng xinh xắn trên cổ, chỉ tay vào ngực mình và nói thì thầm bằng chất giọng như whiskey của bà: “Tôi, tôi là một con phò. Con phò của đời sống thế tục này.”
Tôi ắt hẳn đã học hỏi nhiều từ bà. Chúng tôi sống với nhau trong căn hộ của bà ở Nữu Uẩn một vài năm – chỉ tôi với bà – hai người đàn bà có nhau trong đơn độc. Bà yêu khung cảnh đô thị với một tình yêu vô bờ mà chính bà cũng không mường tượng nổi. Bà kể cho tôi nghe về thời còn trẻ và những lần chếnh choáng ngồi ngắm thành phố này từ ban công căn hộ cũ của bà – một căn hộ mà theo bạn bè Trần Bích Băng, mang âm hưởng của những bộ phim Dương Đức Xương làm. Bà đã nhìn thấy khu rừng sắt thép bằng chính đôi mắt trần của mình. Đó là một khu rừng về chiều, khi hoàng hôn ngã xuống lênh láng trên cảnh vật, sự yên bình tỏa ra từ những nếp cây-nhà, nơi bầy thú hoang trở về sau một ngày vất vả kiếm ăn. Lát nữa thôi, khi màn đêm buông, lũ thú săn mồi buổi đêm sẽ nhào ra để chiếm lĩnh sự quỉ quyệt của bóng tối. Nhưng giây phút này, dưới bóng hoàng hôn như ngâm thế giới trong một hũ mật, tất cả những điều bà thấy là sự bình yên của thiên đường. Thành phố ở đó, trong trái tim bà, với khu phố Bạch Mai trong ký ức tuổi thơ cha bà, và phố Trương Định nơi người yêu đầu tiên của bà làm việc. Bà yêu những thứ rặt đô thị như những căn hộ chật hẹp chen chúc như kén tằm, những cửa tiệm và quán karaoke hay lữ quán nhá đèn neon huyền ảo về đêm, những con đường buổi tối dưới mưa nhuốm ánh vàng đèn cao áp với hàng dài những chiếc ô tô say ngủ bên lề đường, mùi hoa sữa nồng nặc khi trời vào thu hay cái mùi ẩm lạnh của mùa đông trong những con ngõ nhỏ trải ra theo một ngàn hướng như một rhizome địa lý.
Người yêu đầu tiên của bà sau này trở thành một kiến trúc sư khá có tiếng – điều này làm bà tự hào và bà thỉnh thoảng lại lên cơn khoe khoang vớ vẩn khiến ông tôi phát bực. Ông tôi rất nhẫn nhịn bà, vì dù sao thì cả đời bà cũng chỉ biết có mỗi người yêu đầu và sau đó là ông, nên ông cho rằng sự huênh hoang ngớ ngẩn của bà là khả dĩ tha thứ được. Bản thân ông cũng là một người đáng trọng vọng, chứ không phải ông thua kém gì vị kiến trúc sư kia. Ông lại còn biết chơi đàn và nấu ăn rất ngon. Chúa ơi, tôi không biết bà còn muốn gì ở một người đàn ông nữa? Nhưng bà, theo thói quen chọc ngoáy vào nỗi đau của người khác một cách không suy nghĩ, vẫn thường làm ông rầu lòng vì những ký ức mà ông không hiện diện.
Phải nói rằng tôi rất sửng sốt khi hiểu ra ông đã yêu bà đến nhường nào. Ông đẹp trai và tốt bụng, nhưng không hề tự nhận ra điều đó. Ông tự ti vì gia cảnh nghèo khổ và nhiều thứ về bản thân mình. Chính Trần Bích Băng là người đầu tiên làm ông thấy sáng bừng lên vì tự hào và hạnh phúc, với những lời tâng bốc thái quá của bà, với thói yêu đương kịch tính, sự săn sóc của một con diều hâu mẹ và, thật buồn cười khi phải công nhận điều này, nhan sắc không theo lối cổ điển nhưng ấn tượng của bà ở thời điểm bà gặp ông. Ông thường nói với tôi, khi hai chúng tôi uống bia sau hiên nhà: “Bà con không thể làm cho ông hạnh phúc như thế nếu bà ấy không điên được. Sự điên rồ là một phần tất yếu của con người bà con. Ông không bao giờ mong cầu rằng bà ấy thay đổi, vì bà ấy, ở dạng nguyên bản, giống y một đám cháy – ngoài tính hủy diệt, cũng là một nguồn vui không sao tả xiết.” Ông là người luôn giải cứu tôi khỏi sự hách dịch đôi khi của bà (sự hách dịch mà bố tôi thường nhắc đến với sự âu yếm vô cùng. Ông là thằng con cưng của bà – thật vô phương cứu chữa), mua đồ chơi và kem cho tôi ăn, chăm sóc tôi còn hơn cả cha mẹ tôi khi tôi ốm. Tôi yêu ông vô cùng, và có lẽ vì tình yêu vô nhiễm ấy dành cho ông, tôi đâm ra yêu Trần Bích Băng – người mà ông đặt ở ngai nữ hoàng trong đời mình.
Bà nghiện nicotine nặng, nhưng ông không quan tâm điều đó, vì với ông, mọi điều bà làm đều khiến ông lóa mắt. Ông sợ bà bệnh, có đôi khi là như vậy, nhưng bà rất ít khi bệnh, bà ăn uống rất tốt, ngủ ít hơn ông, nhưng không bao giờ bệnh. Bệnh tật có lẽ cũng phát hãi khi phải lại gần Trần Bích Băng. Vì vậy, ông để bà muốn làm gì thì làm. Tôi nhớ những trò quái gở mà bà bày ra cho tôi và các chị em họ chơi trong những dịp lễ. Bà đổ cả đống kẹo dẻo ra bàn và ngồi xếp với chúng tôi một mê cung khổng lồ rồi bắt đám con bà dọn trối chết cái mê cung ấy (các con dâu bà phát hờn lên vì bà). Bà bắt cả lũ ăn vận trang điểm như sân khấu kịch để đọc kịch hay tập diễn những vở kịch phi lý bà viết. Bà bắt chúng tôi ngồi thành vòng tròn, thay nhau đọc những bài thơ mà bà thích, trong tiếng nhạc du dương từ máy quay đĩa và những cái lườm nguýt mỉa mai của mẹ chúng tôi. Bà dầm mưa với chúng tôi cả tiếng ngoài trời, hò hét náo loạn và xáo tung mọi vũng bùn chúng tôi tìm thấy được. Bà cho chúng tôi thức xuyên đêm để xem phim theo lối marathon tất cả những bộ phim quái vật mà chúng tôi thích. Nhiều trò bộ tịch và dị hợm khác, nếu nghĩ từ góc nhìn của một bậc cha mẹ ở giữa, nhưng rất đáng để kể cho bạn bè, và huênh hoang rằng mình sinh ra trong một gia đình nghệ sĩ cánh tả tuyệt luân, nếu nhìn từ góc độ của chúng tôi. Tuy vậy, ai cũng phải nói là sự phóng túng trong bản chất đó khiến bà rất rộng rãi. Trần Bích Băng cho đi hào phóng mọi thứ, cả tình yêu và sự thù hận, cả nỗi trầm tĩnh và cơn giận, cả thân xác và tinh thần. Bà luôn cho chúng tôi thừa mứa thức ăn, dù có bị bố mẹ chúng tôi la hét. Bà luôn có vài đồng bạc không hoàn toàn lẻ lắm trong túi để bất chợt ban phát cho chúng tôi (bà khoái tiền – gene này truyền xuống ông bác tôi một cách khủng khiếp – đến độ sau này ông hơi ám ảnh thái quá về tiền). Bà luôn mua những quần áo và đồ chơi đắt đỏ cho chúng tôi. Và bà luôn ôm chúng tôi chặt nhất, hôn lên má chúng tôi kêu nhất, và làm chúng tôi thấy mình chết chìm trong một thứ tình yêu thương dường như không bao giờ có hồi kết hay điểm dừng.
Bà mê thích đủ thứ mùi hương – nước hoa, tinh dầu, nến và nhang thơm, những bó thảo mộc thơm treo linh tinh quanh nhà, các loại kem dưỡng tay ngọt ngào, khói thuốc lá điện tử vị rượu rum, những chai rượu mùi chất đống trên tủ. Có lẽ đó là lý do mà tôi, và không chỉ riêng tôi, có một cảm giác chìm đắm, mê muội khi ở bên bà – không như ông, người cho tôi cảm giác sảng khoái, tỉnh táo của một sáng mùa hè dậy sớm leo núi hoặc đi bộ dọc bờ biển. Bà làm người ta lừ đừ ngay khi lại gần bà. Bà biết điều đó và nói với tôi đó là một thứ “aura” – hào quang. Xin nhớ rằng bà không dùng từ “hào quang”, mà dùng từ “aura”, một cách thích thú như thể đó là một kiểu chơi chữ hay gì đó. Bà rất sính ngoại, kể cả trong diễn ngôn hằng ngày, và bà phải chịu nhiều búa rìu vì sự sính ngoại đôi khi lố bịch của mình. Bà cũng lười biếng một cách đặc biệt, với tác phong uể oải và điệu bộ thách thức – bà giống như một con mèo lớn trong nhà mà ai cũng phải chiều, và bọn trẻ con, tuy sợ những móng vuốt của mèo, lại bị bộ lông mềm mượt, ánh mắt nghịch ngợm và những trò tinh quái của con mèo làm cho thích thú.
Cha tôi đẻ năm đứa con. Với bà, đây là một việc rất gớm ghê. Bà vui vì có cháu, bà công nhận điều đó, nhưng là người đàn bà chỉ chịu đẻ hai đứa con sau biết bao công thuyết phục của chồng, bà không thể mường tượng nổi vì lý do gì mà người ta lại muốn đến năm đứa con? “Hai đứa đã chết ngất ra rồi.” Bà thường rên lên như vậy trong giờ ăn tối, theo bà là một cách bông đùa, nhưng câu này lần nào cũng làm mẹ tôi khó chịu. Mẹ tôi yêu quý bà, như tất cả mọi người, nhưng bà là một đối thủ quá lớn, không thằng con trai nào trong hai thằng con trai thực sự thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa tình yêu của bà, vì vậy, các cô con dâu hẳn đôi khi thấy bà khá phiền hà. Với ông, đây là một việc tuyệt vời kinh khủng, ý tôi là việc bố tôi đã truyền giống qua đến năm hậu duệ, chứ không phải việc con dâu thỉnh thoảng ngứa mắt vì bà. Ông thường nói : “Bố các con làm được điều ông không làm được.” Không hẳn là việc cha tôi đã nối nghiệp ông và làm ông rạng danh (một việc khiến ông tự hào), mà là việc cha tôi đã xây dựng một gia đình đông đúc, ồn ào y như những gì ông hằng ao ước. Bà, một kẻ mải chơi nhất hạng, đã không đồng ý đẻ như một cái máy đẻ cho ông. Ông yêu bà và buộc phải chấp nhận điều đó. Nhưng trong thâm tâm ông, ông tha thiết rằng bà sẽ đẻ thêm con cho mình, kết nối thêm nhiều dây ràng buộc giữa hai người, trong vai trò cha và mẹ.
Dù đang nói về bà, tôi buộc lòng phải dừng lại một tí để ca ngợi người ông yêu quý tuyệt vời của tôi. Tôi nghĩ, một phần nào đó, ông đã tạo ra Trần Bích Băng. Bà như một đống gỗ cao đến tận trời và ông là kẻ đã thả vào đó một mồi lửa. Một đám cháy vang tận mây từ âm ti.
Ông là một người cực đặc biệt, theo cách riêng của ông. Bà – một thứ gái già có học bất kham trước khi quen ông – đã sớm nhận ra điều đó từ thuở hàn vi của hai người. Bà khoái ông như một gã chiến binh người lùn Trung Địa khoái một thanh gươm báu tổ tiên hắn rèn, và theo lời bà, “tin vào ông như tin vào phúc âm”. Với tôi, một đứa cháu, thứ làm tôi mê nhất là tài nghệ nấu ăn của ông. Bà cũng không phải là một đầu bếp tồi, dù bà khá vụng về trong các việc khác. Nhưng ông là một đầu bếp nhất hạng. Ông biết nấu tất cả những món mà chúng tôi thích ăn, hoặc có lẽ, chính ông đã làm chúng tôi thích những món ăn ấy. Có rất nhiều món ăn mà khi đi ăn ở tiệm, tôi cảm giác như ăn phải những bóng ma nhợt nhạt của thứ thức ăn tinh xảo mà ông chế biến. Ông nói, bà đồng ý đẻ con cho ông vì ông nấu ăn rất ngon. Thực ra, dù không quá vui vẻ với công tác chửa đẻ, bà cũng muốn kết những mối dây ràng buộc không thể bứt phá được với ông. Tôi biết dù là một người khá háu ăn, bà không ham ăn đến mức ấy. Vả lại, cách giải thích này khiến sự tồn tại của chúng tôi – lũ con cháu của ông bà, nghe có ý nghĩa hơn hẳn việc thú nhận rằng mình có người bà phàm ăn đến mức quên mình như thế. Dù sao thì, hiển nhiên việc ông nấu ăn ngon làm bà gắn bó với ông cả đời. Ông bác tôi, một nhà phát minh vốn trầm tính (nhưng mê tiền), thường đùa với tôi: “Không phải đâu. Tin tao đi nhóc, ông bà già tao gắn bó với nhau vì lý do khác cơ.”, và nháy mắt tinh quái với tôi, mỗi lần ông tôi vui vẻ giới thiệu về việc đã thuyết phục được bà làm vợ mình bằng đồ ăn như thế nào. Món tôi thích ông làm nhất là bò bít tết, mà ông quả đã nâng tầm lên một thứ mỹ vị kỳ khôi, và ông yêu cầu chúng tôi gọi nó là “bít tết Maeda” (theo tên tông sư Mitsuyo hay Otávio Maeda, người sáng lập ra môn phái Brazilian jiu-jitsu mà ông đã theo đuổi cả đời). Bà không bao giờ nói cho tôi biết bà thích món gì ông làm nhất. Có lẽ, việc được phục vụ khoái cảm ăn uống đến mức ấy trong đời đã đủ làm bà hài lòng lắm rồi, nên bà không có ý định chọn ra món nhất món bét làm gì cho mất công.
Tôi đến sống với bà sau khi ông qua đời. Sự qua đời của ông có lẽ là nỗi đau lớn nhất đời bà. Tóc bà bạc trắng chỉ vài tuần sau khi chúng tôi chôn ông ở một nghĩa trang xanh mát không quá xa thành phố (dù cho, để bớt phần kịch tính, tôi phải kể rằng trước đó tóc bà cũng đã bạc bảy trên mười phần rồi). Trần Bích Băng yêu cầu rằng sau khi bà mất, bà sẽ được hỏa táng và rải một nửa phần tro cốt ra biển. Nửa còn lại sẽ được đặt về cạnh ông, để họ cuối cùng có thể bên nhau mãi mãi. Tình yêu của họ đôi khi làm tôi thấy hãi, cái cặp đôi già nua ấy. Trong ký ức xa xăm của tôi, họ luôn dính lấy nhau như hình với bóng. Bà luôn khen ngợi ông hay trêu chọc làm ông cáu điên vì đủ thứ linh tinh, còn ông chỉ phần lớn thời gian là im lặng, mỉm cười với bà, hoặc nếu ông đùa, sẽ là những câu đùa nhạt thếch mà chỉ có bà cười nổi. Ngoài ông – một người bà tương đối nể trọng ra, Trần Bích Băng coi toàn bộ (hoặc chí ít là 97,5%) con người trên Trái Đất này chỉ là những trò đùa. Tôi biết tôi là một trong những trò đùa quý hóa mà bà tạo ra. Nhưng kể cả với ông, bà cũng có một phần nào bông lơn với tình yêu lớn của họ.
Cuộc sống của tôi và bà không phải lúc nào cũng dễ chịu. Xa rời ông, Trần Bích Băng rơi trở lại vào cái hố thẳm của hư vô mà bà đã thoáng bắt gặp thời nhỏ tuổi. Bà đâm nghi ngờ sự tồn tại của mọi thứ, hay nói ngắn gọn hơn, bà hóa điên, theo một cách rất riêng của bà. Có những sự điên rồ đáng yêu và đáng để tụng ca. Tỉ như, bà dành nhiều thời gian nói chuyện với một cái ấm trà mà bà đặc biệt yêu quý. Bà gọi nó là “Lady Babel” và lải nhải với nó suốt ngày, bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp. Bà đan và móc (một kỹ năng mà bà đã lần lữa cả đời mới học) những cái tổ khổng lồ bằng len cho lũ chim trời không bao giờ đến. Khi mọi người trêu chọc bà về chúng, bà nói: “Đây là dự án Cái Tổ Trống. Viết hoa cả ba chữ Cái Tổ Trống nhé.” Bà có thể ngồi hàng tiếng đồng hồ trong bồn tắm giữ nhiệt của chúng tôi, đốt đâu đó cỡ một nghìn cây nến thơm, bật nhạc jazz và chơi trận giả một cách khoái trá một mình. Nếu tôi hay cô y tá vẫn đến thăm bà hai lần một tuần nói với bà rằng ngâm bồn tắm quá lâu là không tốt cho sức khỏe, bà sẽ phà một hơi thuốc vào mặt chúng tôi và nói: “Nhưng các quý nương ơi, tôi đã chờ cả đời để chết đây này.” Bà chất đống nhà mình với cả núi bánh kẹo, cold cuts[4], trà và cà phê để thết đãi những ai đến thăm bà, dù bà chả thích thú mấy với việc bất kỳ ai đến thăm bà cả. Trần Bích Băng chỉ sung sướng nhất khi bà ở một mình, kể cả bà có yêu bạn đến thế nào. Sau khi ông mất, bà bắt đầu sưu tập những mảnh gương vỡ và dán chúng kín một mặt tường trong căn hộ, nơi bà gọi là Đền Phản Tư (nhớ viết hoa cả ba chữ cái), với một giá phủ kín nến và một tấm thảm dày dặn cũ mèm phía trước bức tường cho những “giờ phản tư” của bà – những giờ mà bà tuyệt đối được một mình. Những giờ khắc ấy thật trang nghiêm và thi vị, dù có phần kỳ bí và rùng rợn nếu bạn không quen nhìn thấy một bà già xõa tóc ngồi trong ánh nến trước một bức tường phủ kín mảnh gương vỡ.
Nhưng không phải sự điên rồ nào cũng mang lại sự dễ chịu. Bà có thể mang tâm trạng u uất hàng tuần hay hàng tháng như đội một vương miện mây đen trên đầu, không nói với ai nửa lời, mặc đồ đen, sơn móng tay đen và đánh mắt đen ngòm đi lang thang trong thành phố và say mèm ở một tửu quán nào đó. Bà lạm dụng vài loại thuốc an thần được bác sĩ chỉ định, và sưu tập chúng như sưu tập đồ chơi vinyl. “Ái chà, mấy viên thuốc xinh đẹp.” Có lần, tôi thấy bà đổ một vốc thuốc ra tay và cảm thán vậy. Bà không định tự tử hay hủy hoại mình, chỉ là, Trần Bích Băng thực sự khoái mấy viên thuốc đó. Điều ấy làm tôi thấy ớn. Nếu cả quãng đời trước, ông luôn là nhân tố kìm hãm sự ghét người của bà, thì khi ông ra đi, cơn lũ trong Trần Bích Băng có thể tràn ra bất kỳ lúc nào. Tôi không phải là kẻ duy nhất từng bị bà rên vào mặt: “Giời ơi thôi cút ngay. Giùm. Cho khuất mắt tôi.” (lần nào bà cũng ngắt câu như thế), những khi tôi hoặc ai đó lỡ bước vào không gian của bà khi bà đang bực bội. Bà sẵn sàng bực với cả lũ thú cưng nghịch ngợm hay quá quấn quít, một hũ nến cháy không đượm, một món ăn quá lửa, hay một người lạ hoắc “trông ngứa cả mắt” xuất hiện trong tầm nhìn của bà. Trần Bích Băng có thể rất xấu tính và tàn nhẫn khi bà muốn (điều thường làm bà hối hận đôi phần sau khi những đợt tàn phá của bà đi qua ai đó). Cái cách bà nói “con phò” rất xấc xược chẳng hạn, đó là một dạng thiên tai nho nhỏ của bà.
Sự u uất đôi khi của bà làm sống dậy những mầm mống u uất trong tôi. Bà thường phiền lòng nói với tôi rằng, tôi là đứa trẻ nhận gene u uất của bà rõ nhất, và vì vậy, bà thương tôi bằng một thứ tình thương hết sức rộng lượng, khoan dung. Mỗi khi tôi uất ức những chuyện không ai hiểu, bà luôn hiểu. Ông từng nói với tôi đó là thế mạnh của bà – thấu thị. Dù yêu mến ông tha thiết, ông không bao giờ khiến tôi có cảm giác được thấu hiểu như vậy. Trần Bích Băng thường nói: “Je te vois.[5]” bằng một giọng thật thê thiết, và chân thành. Cả cha và bác tôi đều đồng ý với điều đó. “Elle te vois.[6]” Bác tôi thường nói vậy với chúng tôi, mỗi khi nhắc về bà (tôi từng bắt gặp vợ bác đảo mắt và lẩm bẩm trong mồm gì đó khi bác thở hắt ra đôi lời yêu thương về bà mẹ của mình). Bác tôi cũng nhận một phần gene u uất của bà, nhưng bác quá bình lặng và dễ chịu, đến độ những gene này chỉ phát tiết ra thành sở thích với triết học của một người làm khoa học chính xác. Còn tôi, tôi đã lãnh đủ cú thôi sơn của dòng giống. Tôi biết là tôi rất giống bà. Nhưng không như bà, tôi dành trọn vẹn tình yêu của mình cho đàn bà, yêu đơn phương quá nhiều và không may, chẳng bao giờ gặp được một người hết sức tử tế và phù hợp nào, như ông tôi với bà, rù quến. Bà có lẽ còn xót thương tôi hơn vì lẽ ấy.
Bà từng rất không thích một trong những cô bạn gái cũ của tôi – Ngô Thùy Liên, vì nàng ta cao và gầy quá, không đúng gout của bà. Bà có mối quan hệ khá dễ chịu với cô bạn mà bà chê là thoảng mùi hôi nách – nhưng nàng, theo bà, quá nhạt nhẽo và “bộc tuệch”, quê mùa. Bà ưa thích đặc biệt Đàm Linh Ngọc, một bạn gái rất thân của tôi, nhưng vì lý do nào đó chúng tôi không thể nào thành đôi dù đã đôi lần thử hẹn hò. Bà cho rằng nàng có tố chất – và nếu bà trẻ lại 60 tuổi thì bà sẽ cưa nàng ngay tắp lự. Bà tôi là vậy đấy. Bà không ngại nói cái gì cả, và bà nói tôi hay rằng bà làm cả hồn ma phải động đậy vì cái miệng hỗn hào của bà. Bà cực kỳ lấy làm tiếc vì tôi đã không tóm được cô ả họ Đàm. “Ôi con ơi.” Bà gõ thìa vào thành tách trà một cách quý phái rất khó ở “Nhưng cái cô này xứng đáng được vào bộ sưu tập người của nhà mình đấy con ạ.”
Bà gọi họ là bộ sưu tập người. Thật kinh khủng – bà tôi ấy, cái bà già tinh ranh thích hút thuốc và uống rượu vang hồng đó. Bà cho rằng, tất cả những người mà bà có giao thiệp sâu sắc hoặc bán-sâu sắc đều đâu đó là những người có “tố chất” và hào quang đặc biệt. Bà đã cất công sưu tập họ lại quanh cuộc đời bà và cất họ vào một bảo tàng kỳ thú có một không hai, một bảo tàng không có tường bao, khung kính, đèn rọi, không có hướng dẫn viên chỉn chu và giám đốc bảo tàng đạo mạo, một bảo tàng thậm chí không nằm trong không gian và rải rác tản mạn như mây trời nếu nhìn theo dòng thời gian tuyến tính. Bảo tàng ấy chỉ có thể xem ở chiều không gian thứ tư, có lẽ vậy. Bảo tàng đó trưng ra một bộ sưu tập duy nhất – những cá thể người đã được bà đánh dấu là “của mình”. Họ đâu đó giống như những xác ướp, đâu đó giống như những hologram trong thời gian thực, đâu đó là xác thịt và đâu đó là bóng ma. Ông là viên hồng ngọc cẩn lên vương miện của bà, và là tạo vật được trưng bày ở trung tâm của bảo tàng này. “Thằng cha đó là một con quái vật ba đầu, cỡ con Cerberus hoặc một con rồng quỉ gì đó, điểm nhấn đích thực của bộ sưu tập.” Bà hay nói vậy với vẻ châm biếm nhằm cố giấu tiệt sự yêu thương dành cho ông. Trần Bích Băng vui thích vì cái bộ sưu tập ấy vô ngần và có thể ngồi hàng giờ mơ màng để rà soát, nhẩm đếm, lau chùi cái bảo tàng của bà trong tâm trí.
Một điều buồn cười về Trần Bích Băng là bà có một bộ ngực giả và một cái mũi giả. Phải, ý tôi là bà đã độn cả đống thứ nhựa nhiếc vào người mình. Như tôi đã nói đấy, ông tôi để cho bà tôi muốn làm gì thì làm, và bà quả đã tác oai tác quái ra trò thời hai người còn trẻ. Cha tôi nhận được phần tính cách này của bà. Ông khoái phô trương, hiếu thắng và có phần xấu tính khi thua cuộc. Ông không thích nhận là mình sai, dù ông xin lỗi rất thường xuyên với một thái độ kẻ cả ban phát ơn mưa móc. Ông hợp với dân cần lao, giống như ông nội tôi, nhưng lại có sự thông minh, duyên dáng của một kẻ được nuôi dưỡng trong nền giáo dục tư thục khai phóng, nhờ bà. Nền giáo dục cánh tả cấp tiến đó không cản việc bà thích trở lên lồng lộn hơn đôi chút, dòng chính hơn đôi chút, hạ phàm hơn đôi chút – bởi vậy, bà đi bơm ngực và sửa mũi, và với thói thích đổ tội vòng quanh, bà kêu bà làm vậy vì ông tôi. Quả tình tôi biết tỏng không phải vậy. Tôi nghĩ là tôi hiểu ông hơn bà, ở một khía cạnh nào đó. Ông không cần những thứ đồ giả đó để yêu bà, song nếu quả là bà thấy mình xinh đẹp hơn, và từ đó, đâm ra vui vẻ hơn, thì ông nghĩ cũng chả hại gì để bà theo ý mình. Tôi từng nghe lỏm ông trêu đùa với mấy ông bạn trong một bữa tối muộn: “Một bộ loa mà năm mươi năm vẫn chạy tốt chứ không đùa.”, và căn cứ vào giọng cười của họ, tôi biết họ đang nói về ngực của bà, điều mà tôi thấy rất gớm, nhưng ông thì có vẻ khoái trá lắm.
Cuốn tiểu thuyết được đánh giá là lớn nhất của Trần Bích Băng có tên Dục vọng, với một câu nói được trích dẫn cả tỉ lần “Thứ con người ham muốn nhất chính là bản thân dục vọng”. (Trong tiểu thuyết, dòng chữ này được in lên một tấm gương mờ mà ngày nào nhân vật chính cũng soi mình. Những chiếc gương mờ được cho là một phát minh trong thế giới phản địa đàng bà kiến tạo, và sự ra đời của chúng cho phép người soi gương được cải thiện tâm lý rõ rệt vì không phải nhìn thấy chính mình mặt cách rõ ràng. Ẩn dụ này làm rõ lập trường của Trần Bích Băng về việc con người chỉ thích u mê đi, chứ không ai muốn tỉnh táo lên.) Trong cuốn tiểu thuyết này, bà nói rất nhiều về những “vị chúa neon” – các thần tượng được thổi phồng bằng truyền thông và bôi cho bóng nhoáng bằng sự lừa dối của hình ảnh. Bà tỏ ra chán ghét họ, nhưng âm thầm mê thích họ – điều này giải thích cho lựa chọn thuần “nhựa” là đi bơm ngực và sửa mũi của bà. Trần Bích Băng xinh đẹp lên nhiều vì sự can thiệp đó – có thể đấy cũng là một yếu tố khiến bà thành công hơn trong văn nghiệp, bên cạnh tài năng không thể chối cãi. Dù say mê thiên tài, nhưng thiên tài đôi khi không đủ – người ta luôn sùng bái những thứ đẹp đẽ và bí ẩn – nên bà không có lựa chọn nào khác ngoài trở nên đẹp đẽ và bí ẩn.
Thứ khoái cảm đầy tội lỗi với tính đại chúng này khiến Trần Bích Băng, dù không thích con người, vẫn vui thú với sự chú ý và đắm đuối mà con người dành cho bà. Bà vẫn trưng trổ và nói năng giữa đám đông, chỉ để sau đó kiệt cả sức và phải nghỉ ngơi rất dài để lấy lại tinh thần. Bà luôn mặc đẹp và trang điểm cẩn thận khi phải đứng giữa đám đông, và tự giải thích rằng đó là một lựa chọn vị lựa chọn, rất chi phe-mi-nít. Bà tuyệt nhiên không phải một phe-mi-nít không cạo lông nách, đốt áo vú và chối từ son phấn. Ngược lại, Trần Bích Băng sưu tập cả tấn đồ lót, son phấn và những thứ phù du được gán cho đàn bà một cách rất định kiến giới khác. Như đã kể ở trên, bà mê đắm các loại mùi hương, và có lẽ đã không ít lần dùng mùi hương để quyến rũ tha nhân. Bà rất giỏi việc nắm bắt tâm lý thời đại, dù bà luôn phát ngôn rằng mình thích đi ngược thời đại. Bà không đi ngược cái gì cả – chỉ đơn giản là Trần Bích Băng thích nhảy lên đi đầu ở vị trí avant-garde, thích được làm một viên kim cương điên trên bầu trời nhung thăm thẳm của văn chương và nghệ thuật, thích là “cái nhìn” nguyên bản, tiên phong trong muôn triệu những “cái nhìn” mờ nhạt được phô phang vụng về trong các diễn ngôn đại chúng. Bà mê hoặc đám đông bằng cách giả bộ như khước từ họ, rồi biến họ thành những kẻ mắc hội chứng Stockholm, đi si mê kẻ nhẫn tâm với mình. Dù được đánh giá là người chân thành, tôi luôn nhận thấy bà tôi rất kịch, túc kế đa mưu với lắm chiến thuật tài tình trong đối nhân xử thế, hay trong cách bà tô vẽ nên ảnh tượng của mình. Người ta thích bà, rồi sợ bà, rồi lại thích bà. Người ta rơi vào trong bà và viết lách của bà như rơi vào một cái hố cát lún, rất khó thoát ra. Và bà, hơi quái ác như bản tính vốn có, luôn thích thú ngắm nhìn cái hố cát lún đó như một loại thành tựu để đời.
Bà biết về dục vọng và dùng chính dục vọng để giăng bẫy những kẻ lắm dục vọng. Bà không ngại những chủ đề hay quan điểm bị coi là đồi trụy, trác táng, nhưng sâu thẳm bên trong lại thầm cưu mang đạo đức của tính chính trực, hay những lý tưởng toàn bích xa xôi khá thủ cựu về mặt tinh thần. Bà tráng lớp men quý phái lên những quang cảnh phù thế (một số nhà phê bình gọi văn chương của bà là làn sóng mới của dòng văn chương phù thế). Trong một truyện ngắn của bà, Trần Bích Băng viết: “Dục vọng là Chúa. Đền thờ Dục vọng đã được dựng lên trên mọi mảnh đất nơi con người đặt chân đến. Với con người, Dục vọng là thứ thần dược duy nhất có thể cứu chữa họ khỏi cơn bạo bệnh mang tên Sự sống. Dục vọng là thực phẩm thay thế cho mọi loại thức ăn tự nhiên để nuôi dưỡng con người. Chúng ta luôn là những kẻ biết-hết, thấy-hết, nghe-hết từ ngày chúng ta chào đời, nhưng chúng ta che mắt lại bằng Dục vọng để có thể khả dĩ sống sót được trên cõi phàm. Dục vọng là trái tim đập của tấm thân cuộc đời giá lạnh. Cuộc đời, tự nó, chỉ là một cái xác, không hơn – đôi bàn chân rã nát, đôi bàn tay mỏi mệt, đôi mắt đã khép, như đôi mắt đã mở trăm năm. Kiếp phàm nhân quá ngắn, và đời người được dệt bằng nước mắt, nên con người đã cầm Dục vọng lên mà chùi đi dòng lệ này và dấn bước về phía trước như gã hề trong lá bài The Fool.” Thật là một thứ văn chương rối mù như đèn kéo quân, nhưng dù vậy, đã được đưa vào các chương trình giảng dạy Đại học và Cao học ngay từ khi bà còn sống. Trần Bích Băng làm người ta phát khiếp như vậy đấy.
Ông thường kể về bà với giọng nghịch ngợm, nhưng không bao giờ giễu cợt. Có lẽ bà là người duy nhất mà ông thấy sợ – theo một nghĩa nào đó. Điều này cũng đúng với thế hệ sau của họ. Chúng tôi không khác độc giả của bà là bao. Tôi phải thú nhận rằng tôi luôn thấy sợ bà. Không hẳn sợ bà không yêu tôi, mà sợ bà sẽ thất vọng về tôi, hoặc sợ bà sẽ cho tôi ra rìa, ra khỏi cái “bộ sưu tập người’ của bà (với tư cách là một đứa cháu ruột, hiển nhiên điều này là bất khả, nhưng tôi vẫn cứ sợ). Bà làm cho những người quanh mình – cái bảo tàng người ấy, căng cứng một nỗi thấp thỏm rằng bà, tai ác như một đứa trẻ hay như bà hoàng Đỏ trong xứ sở diệu kỳ của Alice, sẽ bĩu môi vào chúng tôi và hất văng hết thảy. Bà tuyệt giao với khá nhiều người trong đời mình theo cung cách này. Phủi họ khỏi vai như một hạt bụi, thậm chí còn không thèm ngoái lại. Tôi từng nhận xét với bà như vậy, và bà trầm ngâm: “Có những hạt bụi bay vào mắt là cay mắt hay xém mù con mắt đó bà nội.” Vâng, và đó là bà nội tôi, gọi tôi là bà nội. Nhưng chả có hạt bụi nào làm Trần Bích Băng nhỏ nổi nửa giọt nước mắt, tôi không lạ gì điều đó.
Tôi vẫn nhớ như in những chiều ngồi cùng đám bạn gái lesbian của mình tụ tập trong phòng khách của bà (đó cũng là nhà tôi trong suốt sáu năm trời qua, nhưng tôi thích nghĩ về nó như là nhà bà, để luôn giữ bà ở đó), và bà, vừa hút thuốc lá điện tử, vừa nhấm nháp một ly rượu hay một tách cà phê đặc từ cái máy pha cà phê tự động cực tốn kém của bà, vừa nói cho chúng tôi hay đủ thứ triết lý trên trời dưới biển. Bà có chất giọng tuyệt vời, mê hoặc, và khiếu hài hước ngấm ngầm khiến người ta bị lôi cuốn không thôi.
“Dữ liệu lớn vẫn là một mỏ tài nguyên mới trong thời kỳ khai thác ban đầu mà thôi. Tôi phải xin lỗi các chị về sự tư bản gớm guốc này, nhưng vợ chồng tôi từng dành khá nhiều vốn đầu tư vào mảng này, chắc đến khi chúng tôi chết cả đôi thì sẽ sinh lời ghê gớm. Chúa Phật phù hộ các cháu tôi để chúng nó được hưởng. Tôi tin dữ liệu lớn là tương lai và chìa khóa mở ra cánh cửa mới cho tư bản – ý tôi là chủ nghĩa tư bản ấy, nhưng nói là tư bản không thì cũng đúng, vì nó sẽ mang lại một suối tiền vô tận để làm vốn cho tư bản tiếp tục sinh sôi. Như người ta nói, tiền đẻ ra tiền.”
“Chị nói sao cơ? Tôi nghĩ gì về chủ nghĩa tư bản ấy. Chị nên đọc các tiểu luận của tôi mới phải.” (Đoạn này, tất cả đều cười rộ lên trừ nạn nhân của đòn công kích đang đỏ mặt tưng bừng.) “Chủ nghĩa tư bản sẽ tự hóa hơi vào chính nó, và trở thành chính nó, luôn luôn, vĩnh hằng, một vòng lặp vĩnh hằng, như một cái bánh vòng. Vĩnh Kiếp Hồi Quy hay Quy Hồi Vĩnh Cửu, chính xác. 10 điểm cho chị. Tôi có tìm thấy sự đồng nhất trong khái niệm về Quy Hồi Vĩnh Cửu và những tính chất bất khả tư nghì của tư bản chủ nghĩa. Nó đã trở thành căn cốt của đời sống rồi, chị hiểu chứ. Việc thoát ra khỏi chủ nghĩa tư bản là bất khả, tôi e là vậy. Chủ nghĩa tư bản là tất cả, dù ta căm ghét nó – nó cũng giống như việc ta chán ói với đời sống dù sinh ra là để sống. Các chị hoàn toàn có quyền cho tôi là lẩm cẩm. Tôi và những con mẹ lesbo đầy suy tư của thời đại chúng tôi đã nghĩ nát nước nát cái về cái này rồi ấy chứ. Đương nhiên, thời đại của chúng tôi nặng nề suy tư về Giới. Họ gọi đó là hạt nhân triết học của thời chúng tôi. Tôi làm tiến sĩ về Giới là bởi vậy, tôi cũng mê cái thứ đó quá đi. Nhưng dù vậy, nó vẫn xoay quanh cái gốc rễ của Tư bản. Nhưng chúng tôi, cũng như các tiền nhân thiếu tính nữ của chúng tôi, rốt cuộc không đào sâu thêm được là bao. Không, chị không phải nói vậy, tôi không thấy đấy là điều đáng tiếc. Không có gì để tiêu diệt ở đây cả, hay tiến hóa. Nó chỉ là vốn dĩ chính nó, tư bản ấy. Việc duy nhất khả dĩ cho chúng ta để tiếp tục sống và tồn tại trong trò đùa này là chấp nhận nó, để nó hiển lộ trong đời sống một cách thuần thục tự nhiên, tận dụng cái nhãn quan của chị để đi vào trong nó, tự làm cho mình hiển lộ trong nó và trở nên một biểu tượng có thể tư bản hóa được.” (Các bạn tôi đặc biệt mê mẩn khi bà nói nhăng nói cuội về chủ nghĩa tư bản.)
“Tất cả vương miện đều nặng, và vương miện nào cũng là mão gai. Không, chị phải nhớ lấy lời tôi nói. Loài người chém giết nhau để đeo những chiếc vương miện này trên đầu mà không hiểu rằng, chúng không phải là phúc âm, mà chúng nó chén đắng. Tôi là một kẻ lầm đường lạc lối đấy. Xin lỗi, nói nghe bậy quá nhưng tôi từng nói với bạn bè tôi rằng ‘Tôi, tôi là một con phò.’ – ấy bởi sự lầm đường lạc lối này. Nhưng tôi đã đeo vương miện và đã chịu để mão gai làm cho đổ máu. Tôi đã uống chén đắng và vác thập giá của mình qua thung lũng của bóng tối. Giờ nhìn lại, tôi không thể nói khác được về việc ấy. Tôi đã ngày ngày vác một chiếc thuyền trên vai đi qua núi, đi vào những vùng mờ sương vô khả định, đi vào tro của ngày tháng đoản mệnh.” Và lần nào nói đến “tro của ngày tháng đoản mệnh”, bà cũng rưng rưng vì nhớ tới ông. Ông chết quá sớm, với bà. Trần Bích Băng kể cho tôi nghe rằng, ngay khi họ mới yêu nhau, ông đã hứa với bà ông sẽ bất tử (một lời hứa rất quái đản, nhưng tin tôi đi, ông bà tôi còn nhiều thứ quái đản hơn thế để mà kể). Cái chết của ông phần nào như một sự phản bội – không phải sự phản bội của ông, mà của vị Chúa đã nặn ra bà. “Chồng tôi là vương miện của tôi. ” Bà nói. “Có thể các chị không tin rằng có thứ tình yêu như thế tồn tại, nhưng quả là nó đã tồn tại. Tôi đã từng xin bất kỳ vị Chúa hay thánh thần nào trên cao, nếu đấng ấy có tồn tại, hãy cho tôi được mang theo ông ấy đến hết đời và cả sau cái chết. Tôi đã vị kỷ đến mức ấy đấy. Nên khi ông ấy chết, thì chén đắng là phần tôi phải uống.”
“Tình yêu của cuộc đời tôi.” Bà nói rất chua xót như vậy, và bà làm tất thảy lũ con gái chúng tôi nhói buốt trong tim, không hẳn vì đấy là một tình yêu đàn ông – đàn bà khác xa thứ tình yêu chúng tôi vác trên vai, mà bởi chúng tôi biết có lẽ chúng tôi sẽ không bao giờ yêu ai hay được ai yêu như thế. “Tình yêu của cuộc đời tôi.” Bà già đầy kịch tính của tôi sẽ lặp lại như thế, giơ cao ly rượu vang như giơ cao chén đắng mà bà vừa nhắc đến, môi hơi nhệch nhẹ xuống rồi kéo lên thành một nụ cười buồn (tôi biết bà diễn cả những cử chỉ nhỏ và tuồng như tự nhiên như thế), và tất cả chúng tôi sẽ nâng ly lên để tụng ca tình yêu suýt soát thánh thần ấy. Nhưng chúng tôi biết, khi nhấp vào môi, rượu này sẽ bỗng hóa thành chén đắng của chúng tôi.
Có lần, trong một cơn trầm cảm nặng nề mà tôi mãi không thể vượt qua, trong lúc bà ngồi bên giường vuốt ve tóc tai và đút cho tôi ăn sô-cô-la đắng của bà, tôi đã hỏi bà, có lẽ là hơi mê sảng: “Bà chôn ông ở đâu vậy? Ý con là, bên trong bà ấy? Bà chôn ông đi đâu để sống tiếp được?” Và bà nói: “Trong mây trời. Con yêu ạ, trong mây trời.” Ôi người bà điệu bộ, u uất, và đôi khi nanh nọc của tôi. Một con người tự nhận mình là một “con phò” của cái xác sống cuộc đời, một người vĩ cuồng ngốc nghếch đến độ tin rằng chồng mình có thể sẽ không bao giờ chết, nhưng thông tuệ đến độ nhìn xuyên qua dục vọng để thấu đến hư vô, một kẻ bảnh chọe đến lố lăng đôi khi và tinh tế đến mệt mỏi đôi khi, một dạng á-thần trong lược sử đời tôi – ôi chao, bà đã nói như vậy đấy. “Tôi sẽ chôn em trong mây trời, vì chỉ có mây trời mới dung chứa nổi mọi hình dung và khao khát của tôi về em.” Bà viết, trong một những bức thư không bao giờ gửi mà bà viết cho ông sau khi ông chết. Tôi sưu tập những lá thư đó (chúng rất thơm, dù chữ bà rất xấu, và bà khăng khăng xưng “tôi”, gọi ông là “em” hết sức kỳ khôi), rồi giữ tất cả chúng cho riêng mình, như thể chúng là mây trời của chỉ mình tôi.
Thế nên, ngày Trần Bích Băng của tôi mất, tôi cũng chôn bà trong mây trời. Như tôi sẽ chôn cha tôi, mẹ tôi, những người tôi yêu, và biết đâu đấy, những đứa con tôi sẽ có. Trong mây trời. Để mây ấm choàng lên họ mọi tình yêu thoát xác ra từ nỗi khổ nạn của cuộc hành hương làm người mà tôi phải một mình gánh vác.
[1] Cao quý và cổ điển.
[2] “Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm. Thánh nhân bất nhân, coi thiên hạ như chó rơm.”
[3] Người theo chủ nghĩa nữ/ bình quyền; người ủng hộ và vận động cho quyền của nữ giới.
[4] Món ăn gồm các loại thịt nguội được thái lát mỏng, thường dùng kèm với phô mai xắt miếng thành món khai vị trong các bữa tiệc.
[5] “Bà thấy con.”
[6] “Bà thấy ta.”

